Trang Mạng liên hệ
Friday, February 6, 2015
.DA RỪNG
.DA RỪNG
*truyện ngắn: PHẠM HỒNG ÂN
Chiếc
xe dừng lại nơi bìa rừng. Hình như đây là rừng Xuyên Mộc hay Xuyên Thổ chi đó ở
vùng Bà Rịa. Ðám con tôi loi ngoi xuống xe. Mặt mày mỗi đứa lem luốc quằn quệnh
như thoa lọ nồi. Gã tài xế nhảy phóc xuống lề, chạy ra phía sau, la lớn:
- Tới rồi bà con ơi! Làm ơn chuyển lẹ đồ đạc xuống xe. Mẹ,
tôi còn phải trở lại thành phố.
Tôi mọp đầu
thật thấp, tránh cái bình than đá quái quỉ lúc nào cũng ùng ục ùng ục, bắn ra
hàng loạt những tia lửa tia than trong suốt cuộc hành trình. Trong lúc tôi đang
loay hoay, gã tài xế bỗng chạy đến, nắm tay tôi lôi mạnh.
- Xuống lẹ dùm con, Má ơi! Ði vùng kinh tế mới mà như đi du lịch...
Sức lôi của
gã tài xế khiến tôi ngã bẹp xuống đất rừng. Cái đít rơi bịch như trái mít rụng.
Ðá, sỏi, gai, gốc...từ phía dưới chỉa lên, đâm thấu vào da thịt, làm ran rát
nguyên cả bàn tọa. Tôi nhăn mặt, hít hà, ôm cái đít ê ẩm nhìn ngược ra con đường.
Ðoàn xe cải tiến tiếp tục chạy tới, nối đuôi, thả khói nghịt trời. Bụi lửa từ
bình than đá bắn ra tứ tung. Nó cộng với bụi đường, bụi rừng...đua nhau quện
vào thân thể người dân như một đòn tra tấn cực kỳ của lịch sử.
- Má ơi, nhanh lên! Người ta kêu vào phía trong chọn nhà kia
kìa!
Con Na cõng
thằng Út lên vai, hai tay đèo thêm hai túi xách. Nó khệnh khạng bám theo đám
đông, chạy thẳng vô cánh rừng. Thằng Ðậu, thằng Rớt, con Ú, con Nhách lóc cóc
theo sau. Mỗi đứa một bịt nylon – trong đó ngổn ngang chén, dĩa, ly, tách, nồi,
niêu, mùng, mền, quần, áo...Tôi hổn hển nối đuôi, nhắm vạt áo rằn ri của
con Nhách mà bườn tới trước. Tôi bườn như con điên. Tóc tai rối tung. Mặt mày hốc
hác. Cái túi đựng ba mớ hỗn độn vẫn khư khư trước bụng. Dường như nó bắt đầu nặng
nề, chướng rướng chàng ràng một cách khó chịu. Rồi, hai bàn tay yếu đuối của
tôi không thể giữ nổi nó nữa. Nó chợt vuột khỏi vòng ôm, lăn tròn xuống đám cỏ
gai, bùng bình búng bính một lúc, mới chịu vỡ toang ra từng mảng. Sổ hộ khẩu,
giấy mượn lương thực, giấy chứng nhận đi vùng kinh tế mới, hình ảnh chồng
con...cùng với thuốc xuyên tâm liên, thuốc nghệ, thuốc giải nọc rắn, băng keo,
băng vệ sinh, giấy chùi đít, gương, lược, phấn, son...đua nhau rơi lả tả xuống
con dốc.
Con Na quăng
vội thằng Út qua cánh tay khẳng khiu của thằng Ðậu. Nó nhảy phóc đến bên tôi,
nhanh nhẩu nhặt nhạnh ba mớ hỗn độn bướng bỉnh.
- Nhanh nhanh má ơi! Chậm quá, tối nay cả gia đình ngủ ở
trong rừng đấy!
- Con chạy lên trước, chọn nhà đi! Má với các em lên
sau. Chân má đạp phải gai, nhức quá đây này!
Tôi nhìn bàn
chân sưng húp. Nhìn hai vạt quần rách bươm, tơi tả như miếng giẻ lau nhà. Nhìn
đám con quằn quại, lặn ngụp giữa dòng đời. Nhìn con Na vừa 12 tuổi đầu, đã vội
thay cha thay mẹ gánh nặng phiền muộn trên vai. Chạnh lòng, tôi muốn khóc.
Nhưng, nước mắt bây giờ, dường như đã cạn khô trong tôi. Nó như vuông ao sệt
bùn. Như bầu sữa vắt kiệt.
Những
căn nhà lêu bêu hiện ra, trải dài, mút tầm nhìn. Không. Nó không đáng gọi là
nhà. Chỉ có vài mảnh lá thưa, che nhếch nhác bên trên. Xung quanh trống hoác.
Gió rừng nhào lộn tứ tung. Làm rúng rính những kèo cột, lớn bằng cánh tay con
Na. Ðám con tôi tiến tới đâu, những căn nhà bị người ta chiếm đóng tới đấy. Ước
chừng – vượt qua ba, bốn cây số đường dài. Ước chừng – nắng tuột phía sau, mặt
trời ngã chiều. Con Na đã mệt đừ. Mồ hôi thấm như mưa, ướt nhèm nhẹp lưng áo.
Thằng Rớt tuột quần khỏi đầu gối, nó chạy ngất nga ngất ngưởng như một tên hề.
Bỗng thằng Ðậu
nhảy cửng lên như ngựa, rồi xà vào một căn nhà vắng tanh, hét lớn:
- Con xí được nhà rồi. Má ơi! chị Na ơi! mang đồ đạc vào, lẹ
lên!
Tôi chưa kịp
phản ứng, tai đã bùng lên giọng ồ ề của một lão già.
- Nhà này có chủ rồi. Ði khỏi bìa rừng, họa may, có chỗ trống.
Thằng Ðậu thất
vọng, ngã lăn xuống đất rừng. Ðất rừng cứng như đá cục. Ðất, giống tấm da trâu
bị căng ra phơi nắng. Nó nứt từng mảng. Nó rạn từng thớ. Thằng Ðậu cũng không
thua chi tấm da trâu. Thân hình đen mẻm. Cát bụi loang lổ trên bụng, trên nách.
- Trời ơi! Vùng kinh tế sao kinh thế? Má ơi! Con đau bụng, mắc
ỉa quá!
Con Ú nằm vạ,
ôm bụng lăn lộn. Tôi lê đến túi xách, mò mẫm chai Nhị Thiên Ðường, thoa lia
thoa lịa vào rún con.
- Con muốn đi ỉa, đi ỉa.
Tôi kéo bừa
con Ú vào một gốc cây. Cỏ cao đến đầu gối. Tôi dùng chân đạp cỏ rạp xuống, rồi
lấy tay vẹt trống một khoảng, vừa chỗ cho con Ú đặt mông xuống.
- Này, ỉa bậy phải không? Mất vệ sinh. Mất vệ sinh.
Gã thanh niên
nào đó xuất hiện. Tấm băng màu đỏ quấn vòng tay áo, xẩm màu theo vạt nắng cuối
ngày. Hắn vừa lắc đầu quầy quậy, vừa phóng một cây vá đầy đất bẩn, cắm phụp trước
mặt tôi.
- Ðào lỗ cho con nhỏ ỉa. Xong, lấp lại, cẩn thận.
Cái lỗ được xới
lên. Chậm chạp. Vất vả. Bởi bàn tay gầy guộc và yếu đuối của tôi. Cái lỗ chưa kịp
khơi xong, con Ú đã phọt ra, tung toé trên cỏ rừng. Gã thanh niên lại lắc đầu
quầy quậy. Hắn bỏ đi một hơi, sau khi cất giọng chửi thề:
- Mẹ, dân thành phố dơ dáy quá! Khó hòa hợp.
Nắng rớt nhẹ
trên đỉnh dã thụ. Nó lung linh, dìu dịu nơi đó một chốc. Rồi hun hút mất tăm,
chìm ngủm trong bóng đen của cánh rừng. Những căn nhà bắt đầu thắp đèn. Những
ngọn đèn leo lét như ma trơi, lập lòe giữa không gian âm u. Tôi rã rời. Tay
chân mình mẩy như bị cắt ra từng khúc. Cái bịt nylon nặng trịch trước bụng. Con
mắt bắt đầu tối thui. Bầy con vây quanh chỉ còn là những cái bóng mập mờ, lúc ẩn
lúc hiện. Tôi quờ quạng giây lát, cuối cùng nhủi đầu xuống một vạt cỏ. Tai
chỉ còn nghe lùng bùng tiếng côn trùng râm ran, hắt ra từ mõm rừng.
Mùi dầu gió nồng nồng đánh thức tôi dậy. Vết
cạo rát rạt trên lưng đánh thức tôi dậy. Tiếng khóc như đưa đám của bầy con tôi
đánh thức tôi dậy. Đặc biệt, giọng oang oang như xé toác bóng đêm của gã đàn
ông nào đó...cũng đánh thức tôi dậy.
- Kìa, bả tỉnh rồi kìa. Tụi bây bắt nồi lên, nấu cho bả miếng
cháo giải cảm. Chặc, con cái đùm đề mà chồng không thấy?
Con Na ngồi xổm xuống nền đất, chụm ba cục
đá lại làm lò, rồi đưa nhúm bùi nhùi vô đốt, lửa phựt lên đỏ hồng. Thằng Đậu bắt
nồi gạo lên lò, chổng mông thổi phù phù. Thằng Rớt, Con Ú, con Nhách và thằng
Út vây quanh tôi, nước mắt nước mũi dầm dề. Tôi ngơ ngác ngó chỗ tôi nằm. Đó là
tấm nylon che mưa, trải thẳng xuống nền đất ẩm, còn sực mùi sình non. Tôi ngơ
ngác ngó lên mái lá lưa thưa. Đó là một túp lều mỏng mảnh, thua xa cái chuồng
ngày xưa tôi dựng lên để nuôi gia cầm. Và điều tôi ngơ ngác nữa, là có gã đàn
ông nào đó...hiện diện nơi này.
Như thấu được nỗi thắc mắc của tôi, gã đàn
ông phơi bày.
- Qua là tổ trưởng ở đây. Nhà này là nhà của qua. Thấy em bệnh
hoạn, lại con cái đùm đề, nên qua nhường nhà cho gia đình em ở. Em cứ yên tâm,
qua sẽ qua lại thường xuyên, giúp đỡ mấy cháu.
Thằng Rớt kéo vạt áo tôi lên, quẹt nước mắt.
-
Bác nhường nhà cho tụi con, rồi bác ở đâu?
-
Bác qua Ấp ở tạm, chờ họ cất thêm nhà, bác dọn tới mấy hồi...
Tôi không còn hơi sức đâu để cân phân, suy
tính. Bây giờ, tôi như một miếng giấy thấm nước, ướt nhem. Người ta vớt lên, cầm
không khéo, giấy sẽ rách tan hoang. Thà là giao hết mọi quyết định cho con Na,
thằng Đậu. Thà là làm một người mẹ bù nhìn, đỡ khổ hơn.
Công việc ở vùng kinh tế mới vượt ngoài khả
năng của gia đình tôi. Người ta bắt dân phá rừng trồng rẫy. Cây rừng nhỏ nhất
cũng bằng vòng ôm của thằng Út. Với sức cùn của một người đàn bà mất chồng, với
vóc dáng của một bầy con đói khát, đứa lớn nhất chỉ mới 12 tuổi, liệu bao lâu
chúng tôi mới đứng vững trên cánh rừng bạt ngàn này?
Rừng xanh um và thâm sâu bí hiểm, khi tôi mới
đặt chân đến. Bây giờ nó xác xơ, tiêu điều như dấu tích của một trận chiến. Cây
rừng bị hạ gục, nằm la liệt khắp nơi. Những thau lau, bằng lăng, giáng hương,
trầm hương quí hiếm...đang lăn lóc giẫy chết dưới bàn tay tàn bạo của con người.
Họ tấn công rừng đủ kiểu, đủ cách. Bằng sức người, bằng máy cưa, bằng cần trục,
bằng chất nổ, bằng mọi sức mạnh sẵn có...miễn sao rừng gục ngã, thoi thóp, hấp
hối và chết tiệt. Hàng trăm xe tải thay phiên nhau túc trực ngày đêm để chuyên
chở thi-thể-rừng về các trại mộc. Họ móc ngoặc nhau, chia của, chia tiền. Họ
tiêu diệt thiên nhiên, giết dần sự sống.
Rừng giẫy chết trong khi căn nhà tôi ở trông
khá hơn một chút, nhờ công sức của con Na, thằng Đậu và gã đàn ông xa lạ. Hai đứa
mò sâu vào rừng kiếm nứa, chặt và cột từng bó vác về. Gã đàn ông chỉ cách róc nứa
từng mảnh, xong đan chúng vào nhau, rồi dựng thành vách. Vách nứa tuy mỏng
manh, nhưng cũng che kín căn nhà, che kín phần nào nơi tôi và con Na thay quần
áo, tắm rửa và tiểu tiện. Và tôi biết, nó cũng che kín phần nào cặp mắt cú vọ của
gã đàn ông thèm khát kia, lúc nào tôi cởi truồng tắm, cũng thấy gã hiện ra, ngó
chăm bẩm vô tấm nylon mỏng dánh một cách đờ đẫn. Đôi lần, tôi muốn vạch mặt, mắng
gã vài câu. Hoặc xua đuổi, tống khứ gã đi cho rảnh nợ. Nhưng nghĩ lại, tôi cũng
cần gã bây giờ. Như một thứ dây leo yếu đuối, cần bám vào cành khẳng khiu nào
đó để vươn lên.
Rừng. Cây bị người ta cắt ngang, chỉ còn gốc
trơ trụi. Buổi trưa, nắng cháy như lửa. Nắng đốt ước mơ tôi thành tro than. Nắng
thiêu cuộc sống tôi quằn quại. Rừng không còn bóng mát để tôi che thân. Rừng giẫy
chết kéo theo tôi giẫy chết. Thời gian, đối với tôi, bây giờ không cần thiết.
Ngày nào như ngày nấy, tôi và con Na đều luồn dưới hố cây, chúi qua lủi lại,
dùng sức chặt đứt rễ chằng chịt của gốc
để cho xe cần trục tới bứng dễ dàng. Hai mẹ con cắm đầu, dãi nắng dầm mưa, chém
tới tấp như hai con khùng. Chém chừng nào không còn một cọng rễ nào bấu vào đất.
Lúc đó hai mẹ con mới buông dao, ngã ngang vào vách hố, ôm nhau thở hì hục. Chiều
nào tôi cũng đưa hai bàn tay sưng phồng, rướm đầy máu lên mắt. Tôi ngó thương
tích trừng trừng, rồi chầm chậm ngước mặt lên trời, khóc một hơi dài. Vậy mà khẩu
phần hàng tháng của chúng tôi vẫn teo tóp. Từ những ký gạo mốc trộn đầy bông cỏ
đến bắp, khoai lang. Cuối cùng chỉ là những lát khoai mì chua lét chua lè. Tôi,
con Na, thằng Đậu và thằng Rớt hiểu được thế cuộc đổi dời, nên ngậm đắng nuốt
cay cố nhét những lát khoai cù nhầy vào bao tử. Còn con Ú, con Nhách và thằng
Út thà chết không thèm đụng tới. Đến giờ ăn, chúng nó như đám giặc, kéo nhau la
bài hải. Nếu không nhờ gã đàn ông tiếp tế vài ký gạo mốc, hàng tháng - chắc tôi
phải mang thêm chứng bệnh đau tim bởi tiếng la đổ trời vỡ đất này.
Sáng nay, gã đàn ông bỗng dưng hẹn tôi tới ấp
kiểm thảo. Tôi không hiểu kiểm thảo cái khỉ khô gì khi tôi làm trầy da tróc vảy
mà chưa được một miếng cơm vô họng? Như sợ tôi đổ lì, gã cử một thanh niên đến
rước tôi. Sau khi đi vòng vo một đổi, tên thanh niên đẩy tôi vô một căn nhà, có
cửa cái trổ ra cánh rừng. Căn nhà ẩm thấp, lè tè như những căn nhà tạm bợ khác
trong khu kinh tế mới này. Chỉ đặc biệt, trên vách có treo lá cờ đỏ ối và hình
của vị lãnh tụ. Gã đàn ông đang ngồi bập bập điếu thuốc bên chiếc bàn gỗ ngả màu
da trâu. Bên trái, là chiếc giường bằng tre lẹp kẹp, trên đó ngổn ngang gối mền
và quần áo tạp nhạp.
-
Qua chờ em từ sáng tới giờ. Em ngồi đi. Qua muốn nói với em một chuyện.
Tôi cẩn thận đặt đít xuống mép giường. Mùi
quần áo dơ xông lên, hắt hắt lỗ mũi.
- Chuyện gì? Tui lao động tận lực như mấy người khác. Có làm
biếng đâu mà đòi kiểm thảo?
- Không phải chuyện kiểm thảo. Đó chỉ là hình thức để kêu em
tới đây.
-
Vậy chớ chuyện gì?
Gã bắt đầu đưa cặp mắt cú vọ rà lên thân thể
tôi, cuối cùng dừng lại ở bộ ngực, chăm bẳm như muốn ăn tươi nuốt sống nó. Gã lại
bập bập điếu thuốc. Khói tuôn ra trắng xóa. Tôi nghe tiếng nước miếng ực ực
trong cổ họng gã.
-
Chuyện tình.
Gã lập cập như nói ngọng.
- Qua...thương...em.
Thương...em nhiều lắm.
Nghe lời tỏ tình quê mùa và nhạt nhẽo của
gã, khiến tôi muốn bật cười. Tôi đã biết trước sẽ có một ngày như thế này. Sẽ
có một lúc gã không chịu nổi cảnh rạo rực động tình của một con đực, trước thân
thể hấp dẫn của một con cái cô độc.
-
Tui đã qua cái thời yêu đương nhảm nhí rồi. Bây giờ, tui phải kiếm miếng ăn, lo cho các con tôi.
Gã đứng lên, quăng mạnh tàn thuốc ra cửa. Rồi,
nhanh như chớp, gã nhảy bổ vào người tôi, đè tôi bật ngửa xuống nền giường. Tôi
chưa kịp phản ứng, gã đã giựt phăng khuy áo tôi, cởi trần cặp ngực tôi. Xong,
úp mặt vào đó, thở hổn hển.
Tôi đạp túi bụi. Tôi đấm thùm thụp trên lưng
gã. Tôi gào, tôi la đến khàn cả họng. Nhưng, tất cả những phản kháng này đều yếu
ớt trước sức mạnh của con thú điên cuồng. Khi mảnh vải cuối cùng vừa tuột khỏi
đầu gối tôi, chợt có tiếng hét chói lói ngoài cánh cửa.
-
Buông ra! Ông buông má tui ngay!
Trong cơn hốt hoảng tột độ, tai tôi bỗng
nghe tiếng "phụp" ghê rợn. Rồi, tiếng rú kinh hoàng cất lên. Máu từ
đâu phún mạnh vào miệng tôi, loang xuống thân thể, ướt đẫm bầu vú tôi.
Con Na bị công an dẫn đi ngay, cùng với con
dao rừng còn đỏ máu. Gã đàn ông được chi bộ ấp tức tốc đưa đi cấp cứu. Chỉ còn
tôi, một mình quằn quại với nỗi đau mất con, với tiếng thị phi dị nghị của người
đời. Tên thanh niên ban sáng đưa tôi đến đây, nhất định kết tội tôi đã dùng
thân xác quyến dụ gã đàn ông. Tôi chỉ biết cúi đầu, lặng câm. Tôi không còn hơi
sức nào nữa thanh minh cho sự oan trái
này. Cũng không còn nước mắt để khóc, cho vơi đi phiền muộn. Nước mắt tôi đã
khô cạn từ lâu. Nó như vuông ao sệt bùn. Như bầu sữa vắt kiệt.
Ngày mai này, tôi sẽ dắt bầy con trốn khỏi
nơi đây. Nếu không, sớm muộn gì tôi cũng phải giẫy chết như cánh rừng tội nghiệp
này.
PHẠM HỒNG ÂN
(Viết ở San Diego năm 2000, viết tiếp ở
Escondido 08/08/2014)
Đọc “THIÊN CỔ BÙI NGÙI” của Phạm Hồng Ân
Đọc
“THIÊN CỔ BÙI NGÙI” của Phạm Hồng Ân
*Tiết Thị Trung Trinh
Tập bản thảo “Thiên Cổ Bùi Ngùi” của anh Phạm Hồng Ân đã nằm gọn trong tay tôi,
lúc tôi vừa chân ướt chân ráo đến định cư tại Virginia. Anh gửi nó đến đây như
thay lời chúc mừng, như món quà dành tặng người đồng hương, tình cờ gặp nhau
nơi đất khách.
“...Áo Tím ơi! cố gắng đọc từng trang, từng dòng, từng chữ...trong tập bản thảo này. Rồi cho anh xin một bài tựa, hay một ý kiến về nó, để anh yên tâm xuất bản. Nhớ trung thực nhé cố nhân!...”
Ôi, những dòng chữ thân thuộc hiện đến, thuở học trò xa xưa lại vụt ùa trong trí tưởng, khiến tôi bàng hoàng nhớ về mái trường trung học công lập Cà Mau ngày nào. Lúc đó, anh học trên tôi bốn lớp. Anh là một chàng học trò nhút nhát, hiền lành đến độ ngơ ngác, thường bị các bạn trêu chọc, bông đùa. Anh biết làm thơ rất sớm, thơ anh xuất hiện trên báo Sài Gòn từ năm anh học đệ ngũ. Tuy nhiên, đối với tôi, thơ anh lúc đó rất lập dị, khó hiểu và trừu tượng một cách kệch cởm. Đại loại như:
“...Áo Tím ơi! cố gắng đọc từng trang, từng dòng, từng chữ...trong tập bản thảo này. Rồi cho anh xin một bài tựa, hay một ý kiến về nó, để anh yên tâm xuất bản. Nhớ trung thực nhé cố nhân!...”
Ôi, những dòng chữ thân thuộc hiện đến, thuở học trò xa xưa lại vụt ùa trong trí tưởng, khiến tôi bàng hoàng nhớ về mái trường trung học công lập Cà Mau ngày nào. Lúc đó, anh học trên tôi bốn lớp. Anh là một chàng học trò nhút nhát, hiền lành đến độ ngơ ngác, thường bị các bạn trêu chọc, bông đùa. Anh biết làm thơ rất sớm, thơ anh xuất hiện trên báo Sài Gòn từ năm anh học đệ ngũ. Tuy nhiên, đối với tôi, thơ anh lúc đó rất lập dị, khó hiểu và trừu tượng một cách kệch cởm. Đại loại như:
“...Bắt đầu lạ những râu đời chán nản
Ta bỏ về thành phố lạnh hơn sông
Mai đốt lửa cháy tàn miền dĩ vãng
Để già nua che kín mặt như rừng...”
( Nghĩ về Vũ Nhật Thúy – thơ PHA 1965 )
Ta bỏ về thành phố lạnh hơn sông
Mai đốt lửa cháy tàn miền dĩ vãng
Để già nua che kín mặt như rừng...”
( Nghĩ về Vũ Nhật Thúy – thơ PHA 1965 )
Hay
các câu trữ tình, lãng mạn đến độ “ kỳ quái ”:
“...Em về, buồn mọc dung nhan
Thuyền quyên lệ rữa hai hàng phấn đen...”
( Người trong cuộc – thơ PHA 1966)
Nhưng khi anh lên Sài Gòn, cuộc sống ném anh vào binh lửa, quẳng anh vào những trớ trêu của tình đời, bấy giờ thơ anh mới bắt đầu “ có hồn ”:
“...Thầy trở lại nhìn các em lần nữa
Những đầu xanh thơm bút vở học trò
Những chiếc áo viền đường bay quá khứ
Những màu môi sáng rực tuổi ngây thơ...”
( Nói với học trò – thơ PHA 1968)
Và đây là đôi dòng chân thật, từ giã bạn bè trước khi nhập ngũ :
“...Em về, buồn mọc dung nhan
Thuyền quyên lệ rữa hai hàng phấn đen...”
( Người trong cuộc – thơ PHA 1966)
Nhưng khi anh lên Sài Gòn, cuộc sống ném anh vào binh lửa, quẳng anh vào những trớ trêu của tình đời, bấy giờ thơ anh mới bắt đầu “ có hồn ”:
“...Thầy trở lại nhìn các em lần nữa
Những đầu xanh thơm bút vở học trò
Những chiếc áo viền đường bay quá khứ
Những màu môi sáng rực tuổi ngây thơ...”
( Nói với học trò – thơ PHA 1968)
Và đây là đôi dòng chân thật, từ giã bạn bè trước khi nhập ngũ :
“...Mai biệt xứ làm thân tàu bé nhỏ
Rượu mềm mội chưa ấm lại lòng đâu?
Đời rách rưới lang thang tìm bến đỗ
Bạn bè ơi, thương tiếc mãi thêm sầu...”
(Biệt xứ – thơ PHA 1969)
Rồi lần lữa nhiều năm trôi qua, tôi không gặp lại anh...Rồi sau cuộc đổi đời khốc liệt năm 1975, chúng tôi càng cách xa nhau hơn, tưởng chừng như không thể tương phùng. Thế mà, hôm nay, cầm trên tay quyển bản thảo “Thiên Cổ Bùi Ngùi” với những dòng chữ thân thuộc ngày nào, lòng tôi bỗng chùng xuống, rưng rưng không nén được xúc cảm.
Tôi đã đọc kỹ từng trang, từng dòng, từng chữ...như anh đã gửi gấm. Tôi đã ngồi suốt đêm thâu, nhớ lại những kỷ niệm, những gian truân mà thế hệ anh đã trải qua, một cách đọa đày. Phải chăng chính thế, mỗi lời thơ có mỗi chiều sâu...rất sâu của cuộc đời. Bài thơ nào cũng chan chứa tình người, đượm đầy tính-nhân-bản-luận. Dường như, anh có khát vọng vươn lên từ vũng tối âm u, xây dựng tình-yêu-tuyệt-đối trong một đất nước chiến tranh đến độ rã rời. Không có thứ tuyệt đối cho tình yêu, cũng như không có loại xã hội tĩnh lặng một cách lý tưởng – khát vọng anh chỉ là ảo vọng tan tành, chỗ...phía sau nỗi chấn động tàn khốc đó...đã làm bật ra “chất-thơ-của-riêng-anh”, trào ra những trang THIÊN CỔ BÙI NGÙI đầy bi thiết.
Thí dụ như viết về quê hương, anh phơi bày hiện thực một cách rất chân thật và bẽ bàng, khác với “kiểu” quê hương “ru ngủ”, “chiêu hồi Việt Kiều” bằng mọi hình tượng vỗ về như : “chùm khế ngọt, con đò nhỏ, cánh diều...” mà một số nhà thơ miền Nam sau 75 đã “bẻ bút” ca ngợi :
“...Quê hương là điều đã mất
Là điều còn lại trong tim...”
Hoặc :
“...Quê hương là men rượu đắng
Cụng ly say khướt một đời
Quê hương là vành khăn trắng
Tháng tư che kín một thời...”
(Tiếc Thương – TCBN trang bảy)
Rượu mềm mội chưa ấm lại lòng đâu?
Đời rách rưới lang thang tìm bến đỗ
Bạn bè ơi, thương tiếc mãi thêm sầu...”
(Biệt xứ – thơ PHA 1969)
Rồi lần lữa nhiều năm trôi qua, tôi không gặp lại anh...Rồi sau cuộc đổi đời khốc liệt năm 1975, chúng tôi càng cách xa nhau hơn, tưởng chừng như không thể tương phùng. Thế mà, hôm nay, cầm trên tay quyển bản thảo “Thiên Cổ Bùi Ngùi” với những dòng chữ thân thuộc ngày nào, lòng tôi bỗng chùng xuống, rưng rưng không nén được xúc cảm.
Tôi đã đọc kỹ từng trang, từng dòng, từng chữ...như anh đã gửi gấm. Tôi đã ngồi suốt đêm thâu, nhớ lại những kỷ niệm, những gian truân mà thế hệ anh đã trải qua, một cách đọa đày. Phải chăng chính thế, mỗi lời thơ có mỗi chiều sâu...rất sâu của cuộc đời. Bài thơ nào cũng chan chứa tình người, đượm đầy tính-nhân-bản-luận. Dường như, anh có khát vọng vươn lên từ vũng tối âm u, xây dựng tình-yêu-tuyệt-đối trong một đất nước chiến tranh đến độ rã rời. Không có thứ tuyệt đối cho tình yêu, cũng như không có loại xã hội tĩnh lặng một cách lý tưởng – khát vọng anh chỉ là ảo vọng tan tành, chỗ...phía sau nỗi chấn động tàn khốc đó...đã làm bật ra “chất-thơ-của-riêng-anh”, trào ra những trang THIÊN CỔ BÙI NGÙI đầy bi thiết.
Thí dụ như viết về quê hương, anh phơi bày hiện thực một cách rất chân thật và bẽ bàng, khác với “kiểu” quê hương “ru ngủ”, “chiêu hồi Việt Kiều” bằng mọi hình tượng vỗ về như : “chùm khế ngọt, con đò nhỏ, cánh diều...” mà một số nhà thơ miền Nam sau 75 đã “bẻ bút” ca ngợi :
“...Quê hương là điều đã mất
Là điều còn lại trong tim...”
Hoặc :
“...Quê hương là men rượu đắng
Cụng ly say khướt một đời
Quê hương là vành khăn trắng
Tháng tư che kín một thời...”
(Tiếc Thương – TCBN trang bảy)
Đọc thơ anh, sau một đêm dài trăn trở, khi xếp sách lại, cố dỗ giấc ngủ, tôi
lại vẫn còn thao thức với những kỷ niệm. Ôi! những kỷ niệm như vết chém, hằn
sâu trong ký ức, hằn sâu trên da thịt đời người. Mỗi bài thơ trong THIÊN CỔ BÙI
NGÙI là mỗi tình huống anh đã trải qua, anh đã va chạm. Những trang thiên
cổ mở ra...rồi khép lại. Quá trọn vẹn. Quá đầy đủ. Rất tiếc, tôi không thể nặn
óc moi tim viết TỰA được cho anh – như lời anh gửi gấm – bởi cố viết như thế
nào đi nữa, cũng không thể làm sáng giá thêm anh. Vì chính anh, chính thơ
anh...đã chiếm lĩnh hết rồi.
Hai câu thơ của anh trong bài PHẬN KIỀU :
“...Dưới ánh sáng Nguyễn Du
Thúy Kiều vẫn bất tử...”
(Phận Kiều – TCBN trang ba tám).
Phải chăng là những “dòng tiên tri” về “số-phận-thơ-anh”. Tôi có thể diễn nôm na rằng, dưới ánh sáng của nền thi ca hải ngoại, THIÊN CỔ BÙI NGÙI sẽ bất tử...và “số-phận-thơ-anh” cũng sẽ lận đận như số phận Thúy Kiều.
Tiết Thị Trung Trinh
“...Dưới ánh sáng Nguyễn Du
Thúy Kiều vẫn bất tử...”
(Phận Kiều – TCBN trang ba tám).
Phải chăng là những “dòng tiên tri” về “số-phận-thơ-anh”. Tôi có thể diễn nôm na rằng, dưới ánh sáng của nền thi ca hải ngoại, THIÊN CỔ BÙI NGÙI sẽ bất tử...và “số-phận-thơ-anh” cũng sẽ lận đận như số phận Thúy Kiều.
Tiết Thị Trung Trinh
Thursday, February 5, 2015
*CẢM NGHĨ VỀ PHẦN VĂN CỦA QUYỂN RONG CHƠI CÕI VÔTHƯỜNG
*CẢM NGHĨ VỀ PHẦN VĂN CỦA QUYỂN RONG CHƠI
CÕI VÔTHƯỜNG
Kính thưa quí vị,
Tôi lãnh
trách nhiệm phát biểu về phần VĂN, trong quyển Rong Chơi Cõi Vô Thường, do nhạc
sĩ Nguyên Phan yêu cầu.
THú thật,
từ trước đến nay, khi nói đến Nguyên Phan, tôi chỉ nghĩ đến những ca khúc trữ
tình, những bản nhạc viết về tình yêu rất tha thiết, rất nồng nàn. Nghĩa là
nghĩ ông là một nhạc sĩ - một nhạc sĩ tài hoa, chớ chưa có dịp đọc một bài văn
nào của tác giả. Vậy mà, khi ông đưa quyển sách Rong Chơi Cõi Vô Thường, tôi rất
ngạc nhiên, vì ông cũng viết văn, và khi đọc xong, tôi thấy văn của ông chẳng
thua gì văn của mấy ông nhà văn ở hải ngoại bây giờ.
Điều đặc biệt nữa, là trong tuyển tập Thơ -
Văn- Nhạc này (ông đề là tuyển tập Thơ-Văn-Nhạc), phần văn của ông đã chiếm gần
4/5 cuốn sách. Cuốn sách có tất cả là 535 trang, phần Văn của ông đã chiếm 456
trang rồi. Phần Thơ và Nhạc nằm trong quyển sách này, chiếm một tỷ lệ rất khiêm
nhường. Vậy muốn gọi ông, chúng ta gọi ông là một nhà gì? Tôi nghĩ, gọi ông là
một nhà văn, nghe có vẻ hợp lý hơn.
Thưa quí vị,
Tôi không dám tự xưng mình là một nhà văn,
nên không dám phê bình một tác phẩm của người viết văn. Tôi chỉ phát biểu vài cảm
nghĩ về quyển sách với tư cách một người
bạn với tác giả. Phần cảm nghĩ của tôi có gì sai hoặc thiếu xót xin tác giả và
quí vị rộng lòng tha thứ. Bây giờ, tôi xin bắt đầu:
Về phần Văn trong quyển sách, tác giả có ý
chia ra làm 5 phần: phần thứ nhất là phần cảm nhận văn học, phần thứ hai là phần
đoản văn, phần thứ ba là phần phiếm luận, phần thứ tư là phần tạp ký và phần cuối
cùng là phần biên khảo. Ở phần cảm nhận văn học, ông ghi lại những cảm nghĩ và
nhận định của ông về tác phẩm của những nhóm văn nghệ hay văn chương mà ông đã
dự phần trong buổi ra mắt sách của họ ( như nhóm Câu Lạc bộ Tình Nghệ Sĩ, nhóm Nam
Phong tuyển tập) hoặc ông viết những bài giới thiệu về tác phẩm của bạn hữu, của
các tác giả thân cận với ông, trong đó có những tác giả đã nổi tiếng, như: nhạc
sĩ Nhật Ngân, nhà văn Phạm Trần Anh, nhà thơ Ngô Minh Hằng, nhà thơ Trần Huy
Sao. Ngoài ra, còn có: Xuân Đà, John Trần, Hồ Hương Lộc, Thiên Vương, Trương
Quân, Ngọc Hoa, Linda Trần, Trần Ngọc, Hoàng Thy Trần triệu Đông, Nguyễn hữu Của
...v..v...
Ở phần đoản văn, tôi thấy, đây là những lời
tình tự nồng nàn nhất, êm ái nhất của đôi tình nhân yêu nhau, rồi chia tay
nhau. Theo tôi nghĩ, đây chưa hẳn là đoản văn, chưa hẳn là bài viết ngắn có cấu
trúc của một câu chuyện. Mà đây đích thực là những bài thơ tình, được tác giả
sáng tác theo thể tự do. Muốn biết, chúng ta hãy cùng nhau nghe một vài câu như
sau:
"...con
chim vành khuyên chuyền cành
Hót vang những lời tình tự..." ( trong bài Mùa Xuân
Gọi)
hoặc: "...Ngậm ngùi ký ức
Từng
góc phố rã rời run rẩy trong gió
Những giọt đắng níu khôn cùng
Mảnh tinh cầu vụn
vỡ..." (trong bài Nỗi buồn đông)
hoặc: "...Đêm, bên em ngồi xõa tóc
Phố cũ nhạt nhòa mưa bay
Nghe lạnh lùng một cõi riêng mang..."
(trong bài Cõi Riêng Mang)
Ở phần phiếm luận, tác giả đứng ở góc cạnh
phê bình để bàn phiếm, luận phiếm về một số vấn đề, như: tác giả bàn về lòng
tham của con người (trong bài Đứng núi này trông núi nọ), bàn về sự tiến thoái
lưỡng nan của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn trong chế độ mới, luận về nhạc sến, luận về
tiếng kẽng..v..v..
Ở phần
Tạp Ký, tác giả đã chứng tỏ khả năng viết ký của ông. Ông viết rất linh động,
đi sâu vào chi tiết, luồn lách vào từng đời sống con người. Phần này tôi rất
thích. Dù sao cũng phản ảnh được lịch sử, phản ảnh được tình trạng di dân của
kiều bào, phản ảnh được miền nam trù phú trước 1975. Ông hoài niệm những Sài
gòn, Bình Thuận, Nha Trang, Đà Nẳng, Huế...NHững nơi chốn tác giả đã đi qua, đã
làm việc, đã quen bạn bè, đã gặp người yêu...Kể cả những trại tù sau 1975, những
vết thương đớn đau, những vết hằn tàn bạo do chế độ mới tạo ra. Kể cả những tháng
năm ông sang Mỹ, du lịch đó đây trong không khí tràn ngập tự do và hạnh phúc.
Đọc tạp ký của Nguyên Phan, tôi như bị lôi cuốn
theo ngòi bút của ông. Một ngòi bút phù thủy vực dậy từng khoảng đời của bạn
bè, từng mảng sống của từng nhân vật ông đã quen , đã gặp. Ông vẽ lại chân dung
của mỗi người một cách trung thực, một cách sống động. Ông dùng tình người để
hâm nóng yêu thương. Ông vắt cạn con tim để lau khô những nỗi đau mà quê hương
gánh nặng.
Ở phần biên khảo, tác giả dùng tài liệu và ý
tưởng riêng để bàn luận về các con vật. Mỗi con vật được dùng biểu tượng cho mỗi
năm. Như năm dần nói chuyện cọp, năm mão nói chuyện mèo..v..v...Tác giả có công
sưu tầm những huyền thoại, những điển tích, những chuyện xưa, những tử vi...cống
hiến cho độc giả tài liệu quí hiếm, các giai thoại lý thú, hiếm người biết đến.
Thưa quí vị
Rong Chơi Cõi Vô Thường là một quyển sách hỗn
hợp giữa Thơ, Văn và Nhạc. Tác giả phân chia ranh giới rõ ràng: nhạc ra nhạc,
thơ ra thơ, văn ra văn. Nhưng theo tôi, sự hỗn hợp này có mật thiết với nhau,
có tương quan với nhau, có liên đới với nhau một cách chặt chẽ. Tất cả đều xuất
phát từ tấm lòng, từ khối óc, từ con tim mà tác giả đã ấp ủ, thai nghén, trải
nghiệm trong một quá trình lâu dài. Ở đời, không có kết quả nào mà không bị
ràng buộc bởi những nguyên nhân. Tác giả và quyển sách cũng vậy. Ngôn ngữ thần
kỳ của thơ là khởi hứng tuyệt vời cho một ý nhạc. Và dòng nhạc thênh thang là một
yếu tố sáng tạo cho nền văn chương thành hình. Cứ thế nguồn thơ-văn-nhạc quyện
lẫn vào nhau như hơi thở. Như sự sống. Như tâm huyết của tác giả.
Và vì thế quyển sách Rong Chơi Cõi Vô Thường
là một quyển sách giá trị. Một quyển sách không thể thiếu trong tủ sách của anh
em chúng ta.
Xin chúc mừng tác giả và trân trọng giới thiệu
đến cùng quí vị. Kính chào.
PHẠM HỒNG ÂN
(ESCONDIDO, 05/09/2014)
.BẢN TÌNH CA CỦA MỘT NGƯỜI LÀM THƠ
.BẢN TÌNH CA CỦA MỘT NGƯỜI LÀM THƠ
*PHẠM HỒNG ÂN
Tôi trở lại làm việc cho GA-esi, sau một năm
dài ngồi thở dài than vắn. GA-esi sắp tan. Hãng chuẩn bị dọn qua Mississippi , bám víu vô
một đơn vị khác để ngáp ngáp. Giống như ngọn đèn leo lét, trước khi tàn lụi, chợt
rực lên. Tôi đang gặp giai đoạn này. Trở lại, vì nó rực lên, mặc dù ngắn ngủi.
Công việc không nặng nhọc, nhưng nhem nhuốc
quanh năm. CAP (capacitor) được hệ thống arc-spray phun chì ở hai đầu. Muốn
test CAP, tôi phải cơi bỏ mảng bột chì dơ bên ngoài lớp plastic. Đó là lý do tại
sao thân thể bị dị ứng và ngứa ngáy khó chịu.
Người bạn đồng nghiệp Việt Nam duy nhất bên
cạnh tôi, là Vĩnh. Anh cũng nắng dãi mưa dầu, hàng ngày bó mình trong lò chì cực
nóng. Tai và đầu lúc nào cũng bị tra tấn bởi hàng tỷ tiếng động quái dị, phát
ra từ các cỗ máy Impregnation đua nhau xả hết tốc lực.
Thật ra, nếu chẳng vì Jessica, có thể tôi sẽ
không muốn trở lại công việc. Tôi không muốn trở lại nơi chốn người ta đã mạnh
dạn từ bỏ tôi, kể cả trong tình yêu, kể cả gia đình. Jessica thu hút mãnh liệt.
Nàng như bóng như hình, lượn qua chao lại giữa đời tôi giống cánh hải âu chưa
bao giờ rời biển. Đúng 8 giờ sáng, mỗi ngày, khi tôi vừa cầm ly cà phê ngậm ngùi
ra tới parking lot, thì chiếc Jeep màu đỏ trờ tới, Jessica khoan thai bước ra,
khép nhẹ cửa xe, vuốt mái tóc dài sang một bên, rồi uyển chuyển lướt vào hãng.
Ngày, tuần, tháng, năm nào...cũng vậy. Cũng cái jupe ngắn khỏi gối. Cũng cặp đùi
trắng muốt. Cũng mái tóc bồng bềnh xõa nhẹ bờ vai. Cũng nụ cười nửa miệng, nhếch
môi khinh khỉnh. Bốn mùa trôi qua đều đặn. Xuân mát rượi. Hạ bứt rứt. Thu se sắt.
Đông run rẩy. Dù nóng rát thịt hay lạnh thấu xương, nàng vẫn đằm thắm bó mình
trong chiếc jupe dễ thương. Chỉ có mỗi ngày mỗi một sắc màu. Nay đỏ. Mai vàng.
Mốt tím. Bữa kia xanh..v..v...
Chuyện tôi si Jessica bắt đầu thấu tai Vĩnh.
Cái nhìn đắm đuối mỗi sáng cộng với sự thẩn thờ trong lúc làm việc đã tự tố cáo
tôi một cách hiển nhiên. Vĩnh nhất định phản đối tình yêu cuồng dại này.
- Ông già rồi. Còn xí quách bao nhiêu mà đi
yêu một cô gái khêu gợi như vậy?
Bôi đen hay xúc phạm thần tượng là điều không
thể tha thứ. Tôi nhào tới Vĩnh.
- Tôi khoái ai, yêu ai...là quyền của tôi.
Chẳng mắc mớ chi tới cậu?
Tôi xắn tay áo, bồi thêm.
- Cái hãng này sẽ như cái đám ma, nếu không
có những cô gái "cởi mở" như Jessica.
..........................................................
Tôi thích Jessica, chẳng phải vì yêu nàng. Cũng chẳng phải vì tấm thân bốc
lửa sẵn sàng phực lên thiêu cháy trái tim tôi. Tôi thích nàng vì nàng giống Lụa.
Lụa của 40 năm về trước, lúc tôi còn là cậu học sinh chưa nếm mùi đời. Thượng Đế
quả trớ trêu. Ngài đã tạo nên Lụa. Ngài còn đem phó bản rải khắp nơi trên trái đất.
Rốt cuộc, xa Lụa một thời gian dằng dặc, qua Jessica, kỷ niệm ngày xưa chợt ùa
về như dòng lũ ngược. Nếu cởi bỏ chiếc jupe cũn cỡn trên thân thể nuột nà của
Jessica, thay vào đó tà áo dài trắng tha thướt học trò...thì chắc chắn phó bản
sẽ trở thành chính bản. Jessica sẽ trở thành Lụa. Y hệt. Trăm phần trăm.
Nhắc Lụa, khung trời Cà Mau như ngả nghiêng trong ký ức tôi. Những con đường
chụm lại. Dòng sông trôi giạt đôi bờ. Thành phố khóc mưa chiều. Mái trường
trung học vắng bặt tiếng guốc nữ sinh. Chiến tranh bắt đầu tấn công tỉnh lỵ. Tuổi
trẻ lội trong khói lửa như cá mắc cạn trong vũng lầy. Trước biến cố thời cuộc,
Lụa vẫn vươn lên như mầm cây, mướt xanh và thắm sắc. Những bài thơ của tôi ra đời.
Sầu, thương, than, khóc...cộng với khói thuốc và hơi rượu... đã làm đảo điên trái tim mềm yếu của
nàng. Bài thơ đầu tiên tặng Lụa được đăng trên báo Phụ Nữ Diễn Đàn. Cả xóm le lưỡi
thán phục. Cả trường trung học An Xuyên đi tìm tôi, nhìn mặt. Lúc đầu Lụa mắc cỡ,
lên tiếng trách móc, phàn nàn. Sau đó, nàng lén nhìn tôi bằng ánh mắt thiết tha.
Và thay vào cái nhếch môi khinh khỉnh năm xưa là nụ cười thầm kín, dường như có
chất chứa một hứa hẹn nào đó cho mai sau.
Thời gian êm đềm trôi qua, những bài thơ tôi tiếp tục cho Lụa, đăng khắp
nơi trên các báo Sài Gòn. Đến một lúc, tình yêu dâng trào, Lụa không thể giấu kín
nỗi niềm nữa, nàng bộc lộ bằng cách âu yếm dắt tay tôi về giới thiệu với ông già.
Nhà Lụa kín đáo, nằm bên hông rạp chiếu bóng Huỳnh Long, dưới hàng gòn vây
quanh sân, che mát mái tôle. Mùa này, cuối năm, trái nứt bụng, lòi bông trắng xóa.
Bông gòn theo gió, bay tung tăng trước sân, bay dính vào tóc Lụa, bay xà xuống đôi
chân vạn dặm của tôi, và trải dài như hoa tuyết khắp lối đi. Chưa kịp vào nhà,
tôi đã thấy một người đàn ông lom khom nhóm lửa trong cái bếp đặt dưới lườn chiếc
xe bán mì lưu động. Như hiểu được nỗi băn khoăn của tôi, Lụa nhỏ nhẹ.
- Ba em đó! Ba em đang chuẩn bị đi bán đêm.
- Ba em bán mì gõ? Hèn chi tối nào anh cũng nghe tiếng gõ lóc cóc khắp các
con đường. Nhiều khi thức khuya học thi, đói bụng, anh cũng kêu mì của ba em. Vậy
mà...không biết?
Lần gặp đó, tôi thất vọng. Ba Lụa cố ý muốn cắt đứt tình cảm của tôi với
Lụa, khi biết tôi làm thơ, phung phí tâm hồn.
- Con kết bạn với thằng này, lâu dần...có nước xách túi đi ăn mày. Thơ với
thẩn làm sao kiếm được tiền? Ba thức khuya dậy sớm bán mì nuôi con ăn học, để rồi...ngó con ôm nhau chết
đói hay sao?
Tôi buồn tình, lủi thủi ra về. Bông gòn vẫn rơi trên lối đi, trắng xóa
như tuyết. Tôi tưởng chừng đấy là những đám bông tang, khâm liệm mối tình tôi vào
đáy sâu kỷ niệm.
....................................................................................
40 năm trôi qua như giấc mơ. Kể từ lúc chia tay với Lụa, tôi không có cách
nào để gặp lại nàng. Chiến tranh bùng nổ khắp nơi, tôi bị cuốn hút vào vòng
binh lửa như một định mệnh an bài. Chiến tranh còn làm thất lạc tất cả. Thất lạc
ngay chính tôi. Một người lính làm thơ ngơ ngáo trước trận tiền. Rồi, chiến
tranh kết thúc. Kết thúc một cách vội vã, hối hả. Tôi lại thất lạc thêm lần nữa.
Một tù binh làm thơ bơ vơ trong ngục tù.
Tôi nướng rụi tuổi trẻ trong khói lửa và lao lung, cho đến khi tuổi già
sắp bộc phát thì mới qua được Mỹ, theo chương trình HO. Chưa kịp định cư yên ổn,
tôi đã liên lạc với các đồng hương để tìm tung tích Lụa. Vài ngày sau, tôi nhận
được điện thoại của Hiền, một thằng bạn chung lớp thời trung học đệ nhị cấp.
- Tau tìm ra tung tích của chú Sáu rồi.
Tôi áp ống nghe vào sát tai. Nhăn mày, ngạc nhiên:
- Chú Sáu nào?
Tiếng chửi thề vang lên, nhừa nhựa kéo dài.
- Đù má. Chú Sáu bán mì gõ ở xóm Huỳnh Long đó!
- Ô! Ông già của Lụa. Mày gặp Lụa rồi ư?
- Chưa. Chỉ mới nghe tin. Tau ở Virginia
qua Little Saigon có một tuần thôi! Mày muốn gặp chú Sáu, ngày mai lên đây. Tau
và mày sẽ đến tiệm mì của ông ta.
- Hả? Ổng có tiệm mì ở Little Saigon sao?
- Nghe nói ổng mang cả xe mì gõ qua, lập nên tiệm mì. Làm ăn phát đạt lắm!
Mặt tôi bỗng nóng phừng lên, hừng hực. Hình như trái tim đang đập mạnh,
phình phịch trong ngực.
- Còn Lụa. Lụa thì sao?
- Tau chỉ biết tới đó thôi!. Muốn biết thêm, ngày mai lên đây sẽ biết.
.....................................................................
Buổi sáng, mặt trời vừa hực nắng, tôi đã khăn gói ra xe, trực chỉ hướng
Little Saigon. Hôm qua, suốt đêm, tôi không ngủ được. Lâu lâu, cứ ngóc đầu dậy
nhìn đồng hồ, rồi nằm xuống lăn qua lộn lại. Tôi trông đêm qua mau, ngày tới lẹ
để nhào xuống xe, phóng một mạch rước Hiền, rồi chạy thẳng đến tiệm mì. Hôm
qua, hình ảnh Lụa cứ đập vào trí tôi như khúc phim quay ngược. Tà áo dài trắng
thướt tha, mái tóc dài lay bay, và đôi chân thon thả vào đời...cứ trăn trở, cứ
ray rứt, cứ sống lại trong tôi thời lãng mạn học trò. San
Diego cách Santa Ana
không xa, khoảng một tiếng đồng hồ sau, tôi có mặt ở Phước Lộc Thọ. Hiền chọn
chỗ ngồi ngay cửa trước, nơi quầy cà phê đầu tiên, với cuốn đặc san Cà Mau trước
mặt, chờ tôi. Nhận diện Hiền dễ dàng, vì có những dấu hiệu báo trước. Nhưng tôi
phải lưỡng lự vài giây, mới định thần nhào tới ôm nó reo mừng. Thằng bạn trẻ
trung lém lỉnh ngày xưa, giờ là lão già xuội lơ, lờ rờ như rùa mắc cạn.
- Lên xe, chạy theo tau. Cứ nhắm Garden
Grove tiến tới.
.........................................................................
Cánh cổng to lớn tự động mở toang, trước mũi xe chú Sáu. Sân thênh
thang. Chúng tôi lần lượt đậu xe vào, vẫn còn
khoảng trống dọc ngang chạy mút tới bờ tường. Những tầng lầu chồng lên
nhau, tạo nên một biệt thự uy nghi, bề thế. Hàng palm vươn lên, chung quanh. Thân
thẳng đứng, biểu hiện cho sự hiên ngang, bất khuất. Tôi chợt nhớ hàng gòn nhà Lụa
40 năm về trước. Trái gòn, cuối năm nứt bụng, rắc bông trắng xóa xuống lối đi.
Bông gòn từng được tôi ví như bông tang, khâm liệm mối tình học trò của tôi và
Lụa xuống đáy sâu kỷ niệm.
Chú Sáu mời chúng tôi vào phòng khách. Chú vừa pha cà phê vừa huyên thiên.
- Ở tiệm mì, nói chuyện với nhau không tiện. Chú muốn mời mấy cháu về nhà,
nói chuyện thoải mái hơn.
Hiền ngó nét tráng lệ xung quanh căn phòng, rồi ngó chú Sáu thán phục.
- Chú chỉ đem có gánh mì sang Mỹ mà làm ăn phát đạt. Chắc chú có bí quyết
chi đó? Truyền lại cho con cháu đi chú!
- Làm ăn ngon lành, đâu phải chỉ có mình chú? Người ta đã đem món ăn Hà
Nội, Huế, Sài Gòn qua cả bên này. Thậm chí họ còn muốn đem cả thành phố Sài Gòn
qua luôn. Không tin, mấy cháu chạy tà tà đến phố Bolsa đi! Y hệt như Sài Gòn ngày
xưa. Một Sài Gòn trên đất Mỹ.
Tôi nóng lòng, đứng lên ngồi xuống. Mắt ngó dáo dác, tứ tung. Lúc ngóng
lên cầu thang. Lúc nghiêng xuống lối đi. Lúc dò xét các căn phòng. Tôi thất vọng
hoàn toàn. Tất cả đều chìm trong im lìm, vắng lặng. Không dấu hiệu nào báo có sự
hiện diện của Lụa ở đây.
Chú Sáu chợt xoay lưng, vỗ nhẹ vào vai tôi.
- Cháu này ở hẻm Huỳnh Long phải không? Ba cháu tên gì? Coi chú có nhớ
ra không?
Hiền la lên.
- Cái thằng chuyên làm thơ tán gái. Nổi tiếng khắp xóm Huỳnh Long. Bộ chú
không biết sao?
Chú Sáu buông tách cà phê xuống bàn, kêu "Trời ơi!", rồi choàng
tay ôm tôi vào lòng. Nước mắt chú rưng rưng, làm nước mắt tôi cũng rưng rưng.
- Chú xin lỗi cháu. Ngày xưa, dại quá, chú nói những lời xúc phạm đến cháu.
Bây giờ, hối hận lắm!
Tôi lắc đầu, thân mật nắm chặt tay chú Sáu.
- Lụa. Lụa vẫn khỏe hả chú?
Chú Sáu ôm mặt, khóc rống lên.
- Chú đã mất con Lụa rồi. Mất rồi.
Mắt tôi bỗng mờ dần. Trần nhà dường như nghiêng ngửa. Tôi nghe rõ từng
nhịp tim tôi đập yếu ớt trong lồng ngực.
- Lụa mất rồi? Mất hồi nào? Trong trường hợp nào vậy chú?
Chú Sáu dìu tôi ngồi xuống sofa.
- Nó vẫn còn. Cái xác vẫn còn, Nhưng cái hồn thì thất lạc ở phương nào?
...........................................................................
- Lụa đấy! Cháu cứ vào, nhỏ nhẹ khơi lại kỷ niệm với nó. Coi nó có nhớ
cháu không?
Tôi sửng sốt ngó người đàn bà mặc áo nâu sòng đang khiếp sợ thét lên,
khi tôi tiến đến gần bà. Bà chắp hai tay trước ngực, rạp người xuống, lạy lia lịa.
- Xin ông tha cho tôi. Tội nghiệp tôi, ông ơi!
Chú Sáu lẹ làng bước tới.
- Lụa. Đây là bạn thân của con. Bạn học với con hồi thời trung học. Nhớ
không?
Người đàn bà ngưng lạy, ngước mặt lên, ngó tôi đăm đăm. Một thoáng trôi
qua, bà lắc đầu quầy quậy.
- Bạn hả? Nói dóc. Bạn tui còn ở dưới biển kìa. Bạn tui không về. Bạn
tui làm quen với nàng tiên cá.
Trời ơi! Lụa của tôi đây sao? Lụa dấu yêu ngày nào của tôi đây sao? Một
người đàn bà bạc trắng mái đầu, tóc ngắn cũn cỡn, thân xác già nua tiều tụy
trong bộ nâu sòng thùng thình thúng thính...mà là Lụa của tôi đây sao? Đâu rồi
mái tóc thướt tha xõa xuống bờ vai? Đâu rồi nụ cười nửa miệng, ánh mắt thiết
tha gợi tình? Đâu rồi tấm thân kiều diễm, với từng bước chân thon thả đi nhẹ vào
đời? Dường như tôi bật khóc. Dường như tôi đang mất đi một điều gì quý báu nhất
trên đời?
Chú Sáu ở sau lưng cứ thúc tôi tiến tới.
- Cháu đến với nó đi! Dùng tình cảm, nhắc lại mối tình năm xưa của hai đứa,
coi nó có hồi phục tâm trí không?
Tôi dịu dàng nắm nhẹ tay Lụa. Lụa giựt tay lại, lùi mạnh vào vách tường.
- Lụa còn nhớ bài thơ đầu tiên anh tặng cho em không? Bài thơ đăng trên
tuần san Phụ Nữ Diễn Đàn. Chính em đã dẫn một bầy con gái tìm anh, đưa guốc lên
xin chữ ký?
- Thơ? Thơ hả? Thơ Vân Tiên chứ gì? Thơ đó, làm sao có chữ ký. Nói dóc.
Tôi kiên nhẫn.
- Bài thơ đó, ngày xưa em thuộc nằm lòng. Bây giờ, anh đọc lại cho em
nghe:
Em từ tiền kiếp về đây
Bắn anh một mũi tên ngay huyệt tình
Dù ôm thương tích vô hình
Ngẩn ngơ suốt cuộc hành trình trăm năm
Phải chăng em ngọn dao gâm
Đâm anh những nhát vô tâm trong đời...
Lụa bỗng ngã lăn ra, cười rũ rượi.
- Tui ghét vọng cổ lắm. Ông ca dở ẹt. Về nhà ca cho má ông nghe đi!
Tôi hoàn toàn thất vọng. Ký ức của Lụa, giờ đây, trống rỗng. Thần trí của
nàng thất lạc phương nào? Lụa quên mất tất cả những gì trong quá khứ, kể cả mối
tình đầu nồng nàn và sâu đậm nhất của chúng tôi.
Chú Sáu đưa hai tay lên cao, kêu "Trời". Và kéo tôi ra hành
lang.
- Mấy chục năm nay, chú đã đưa nó đi khắp nơi trị bệnh. Từ chùa chiền,
nhà thờ, bệnh viện...cho tới bùa, chú, trấn, ếm... đủ kiểu. Hết thuốc tây tới thuốc bắc, thuốc nam...kể cả thần
dược, nan dược. Ai bày chi dùng nấy. Ai chỉ thầy hay...cũng tìm đến. Rốt cuộc,
bệnh vẫn hoàn bệnh. Tiền mất tật mang cháu ạ!
Tôi xót xa, nắm chặt tay chú Sáu.
- Chú có biết nguyên do nào làm Lụa điên cuồng như vậy?
- Năm chú vượt biên. Tàu chú chẳng may gặp hải tặc hung dữ. Chúng cưỡng bách
và hãm hiếp phụ nữ vô cùng dã man. Lụa, là đứa con gái mới lớn, nên không thể
tránh khỏi cảnh thương tâm đó. Nó đau đớn ngất xỉu, và khi tỉnh dậy - nó chợt hóa
điên cuồng.
...........................................................................
Tôi trở về San Diego
giống một cái xác không hồn. Hy vọng tìm tung tích Lụa, từ 40 năm nay, thoáng
chốc tan thành mây khói. Lụa còn đó như không có. Lụa còn đó, nhưng biến dạng
biến hình, chết luôn cả tâm hồn thanh cao mà suốt tháng năm tôi nâng niu, trìu mến.
Chính bản mất, tôi chỉ còn cơ hội bấu víu vào phó bản. Thượng đế quả tuyệt
vời. Chính Ngài đã đem phó bản rải khắp nơi để con người không có quyền tuyệt vọng.
Tôi sẽ theo chân Jessica, sẽ làm những vần thơ mượt mà cho nàng. Tôi sẽ dựng lại
tình yêu, dựng lại cái đẹp trên cuộc đời đầy thương đau này. Giống như Sài Gòn
mất, người ta dựng lại Saigon trên đất Mỹ.
Ngày mai, tôi vào GA-esi làm việc, tôi sẽ nói với Vĩnh đôi lời. Nếu không
có những người làm thơ ca tụng vẻ đẹp trên đời...thì cái hãng này sẽ buồn như đám
ma và trần gian này sẽ ảm đạm như cái bãi tha ma khổng lồ.
.PHẠM HỒNG ÂN
(Escondido , 09/11/2013)
.CHIẾC BÓNG ĐƯỜNG CONG
.CHIẾC BÓNG ĐƯỜNG
CONG
(Tặng
Lộc, Luận, Cúc, Út, Liêm, Quyên, Tiếng.)
Rụng trong đời
chiếc bóng đường cong
Sợi
tóc chẻ trái tim thành ký tự
Phố xối nắng
nhòa bờ vai mỹ nữ
Sài Gòn chôn
cổ tích ngậm trầm hương
Đứng lạc loài
giữa ngã ba đường
Bóng tối ngập
hàng cây vừa nhú lá
Chưa thiếu
nữ em đã sầu tàn tạ
Xé lòng đau
từng thương tích trong tim.
Rụng trong đời
từng bước chân chim
Trên mái ngói
Văn Khoa chiều vắng bạn
Chim khóc
chim bởi ổ tình hoạn nạn
Em khóc anh
vì bỏ lớp ra đi
Cường Để nằm
thở khói hàn vi
Ôm chuyến
buýt cuối cùng về Tân Định
Bánh xe đạp
nghiến vòng quay vô định
Chở thơ đi
khập khiểng ngữ ngôn hề.
Rụng trong đời
ý thức ngô nghê
Cắn bánh mì
nhai tây phương triết học
Đêm cầm giẻ
làm tên bồi nô bộc
Ngày nghiêm
trang mượn giọng giáo dạy kèm
Chiếc bóng đường
cong ký tự sinh viên
Sài Gòn đứng
dầm mưa ôm nỗi nhớ.
*PHẠM HỒNG ÂN
(18/08/2013)
.BÀI CA VỌNG CỔ ĐẦU TIÊN VÀ CUỐI CÙNG
.BÀI
CA VỌNG CỔ ĐẦU TIÊN VÀ CUỐI CÙNG
*Phạm Hồng Ân
I. Tôi nhớ căn phòng này anh hai tôi nằm. Tấm
màn xanh che ngang, phía trong là chiếc giường chị hai tôi, kề cận... để hai vợ
chồng có thể trông nom nhau trong những đêm hôm vắng lặng, nơi khu nursing home
cổ kính này. Tôi nhớ số phòng, tất cả con số cộng lại bằng con 3. Đây là second floor. Vậy chỉ có phòng 201
hay 210 mà thôi. Phòng 201 tôi đã đến rồi. Đó là phòng có hai ông già Mỹ ốm
nhách ốm nhom, vừa thấy tôi bước vô, hai ông đã vội vàng xổ một tràng ho xù xụ
để chào mừng. Còn phòng 210 thì là phòng của hai bà già mập ú. Họ cũng giương
cặp mắt kèm nhèm ngó tôi trưng trửng, như ngó người hành tinh lạ vừa lạc vào
cõi trần ai lai khổ. Tôi gãi đầu, tháo lui, rồi đi ngược ra hành lang, vòng
phía cầu thang thoát ra bên ngoài. Đặt đít xuống cái băng gỗ nhơm nhớp cát bụi,
tôi kiểm soát lại trí nhớ lem nhem của mình một lần nữa. Một tháng trước, anh
chị hai tôi nằm đây. Một tháng sau - thời gian quá dài, bao nhiêu cuộc đổi thay
có thể xảy ra? Biết đâu anh hai tôi nhuốm bệnh nặng phải chuyển đi nơi khác?
Biết đâu chị hai tôi đã bình phục, trở về với gia đình? Trong lúc tôi đang phân
vân với những nghi vấn nặng nề thì có giọng ca vọng cổ mùi mẩn cất lên, làm đầu
óc tôi dịu lại và trái tim bắt đầu se thắt.
" Những thân cây cao là những thân cây
chịu nhiều phong ba bão táp, nhưng là những thân cây bám sâu vào đất, bền bỉ
trung kiên ngăn gió dữ mưa...cuồng".
Giọng ca của một chàng thanh niên nào đó,
phát ra từ phía sân sau Nursing Home. Giọng ca bất ngờ đã làm tôi xúc động.
Không phải vì lời ca hay, cũng không phải vì người ca điêu luyện, mà vì nó kéo
tôi trở về một kỷ niệm xót xa, vì bài vọng cổ đó là bài chính tay tôi viết ở
trong một trại tù, và chỉ dành riêng cho một người...
Tôi luống cuống mò xuống sân sau, nơi có
bóng mát của những hàng cây phơi lá dưới ánh nắng ban trưa. Cậu thanh niên vừa
ca vừa đẩy xe lăn cho một ông cụ đi dạo. Tôi chờ cậu dứt câu, liền đưa hai bàn
tay lên vỗ vào nhau liên hồi. Ông cụ cũng mỉm cười, vỗ tay phụ họa.
- Hay, hay quá! Giọng ca của cậu làm tôi nhớ
đến giọng ca Út Trà Ôn ngày trước.
Cậu thanh niên bẽn lẽn, ngó tôi từ đầu tới
chân.
- Cám ơn chú. Ông cụ thích vọng cổ. Con muốn
ca cho ông vui vậy mà...
Tôi tiến đến xe lăn chào ông cụ và nắm chặt
tay cậu thanh niên.
- Chú thứ sáu. Cứ gọi chú là chú sáu. Chú
muốn hỏi cháu bài ca này ở đâu cháu có vậy? Chú không thấy nó xuất hiện trên
đài hoặc trên tivi trong nước và ngoài nước bao giờ?
- Cháu tên Phùng. Làm việc ở đây. Chuyên đẩy
các ông cụ bà cụ đi dạo sau giờ cơm. Cháu ca vọng cổ khi nào có ai yêu cầu. Bài
ca cháu hát do dượng út của cháu ghi lại. Dượng nói, đó là bài ca
"tủ" của người bạn gái vượt biên chung với chú.
Tôi hồi họp.
- Người bạn gái vượt biên? Bây giờ cô ta ở
đâu? Dượng cháu ở đâu? Họ đang định cư nơi San Diego này?
- Không. Cô đó cháu không biết ở đâu. Còn
Dượng Út đang sinh sống tại Virginia .
Năm nay ổng già, về hưu rồi.
Tôi bám theo Phùng, tiếp tục lần ra manh
mối.
- Dượng út cháu tên gì? Ông ta cũng biết ca
vọng cổ?
- Dượng út tên Hiện. Dượng chỉ là một tay
đờn vọng cổ tài tử. Theo ổng kể, tết năm 1976 là cái tết đầu tiên của người
Việt nơi xứ Mỹ. Họ buồn nhớ quê hương quá, nên tụ họp với nhau tổ chức đờn ca
xướng hát cho vui. Lúc đó, giới nghệ sĩ cải lương không có ai hết. Chỉ có dượng
út cháu biết đờn và người bạn gái của dượng biết ca. Thế là họ lên sân khấu
diễn bài này. Không ngờ bà con cô bác vỗ tay hoan nghinh quá xá.
Biết không thể tìm hiểu thêm được điều gì
khác. Tôi tỏ vẻ ái mộ dượng út Phùng để xin số phone ông ta. Trước khi từ giã,
tôi không quên hỏi thăm về tình trạng
của anh chị hai tôi. Phùng vui vẻ trả lời, hai ông bà đó được mấy đứa con rước
về rồi. Họ khỏe lắm.
II. Lúc tôi mới tập thả ngụm khói thuốc đầu tiên
trong đời, thì Kim Xuyến cũng vừa bỏ trò chơi nhảy cò cò với đám con nít chung
xóm để bắt đầu ru em bằng những bài bản vọng cổ mùi mẩn. Kim Xuyến có giọng ca
trong vắt, như lưỡi dao sắc, cắt nhè nhẹ trái tim người. Nhà Kim Xuyến kế sát
nhà tôi, cách nhau bởi một tấm vách lá mong manh, nên trái tim tôi ngập tràn
vết cắt. Tuy vậy, cả hai chưa bao giờ tự mở miệng làm quen. Nhưng, từ một thần
giao cách cảm nào đó, tôi biết hàng ngày Kim Xuyến âm thầm gửi đến tôi những
tình cảm thầm kín qua từng câu vọng cổ bi thương não nuột. Niềm im lặng cứ theo
thời gian kéo dài, cho đến một ngày tôi chuẩn bị đi lính, Kim Xuyến mới chận
đường, thốt lời thăm hỏi.
- Nghe nói anh sắp đi lính, vui quá, em muốn
đến chia tay với anh.
Câu nói đầu tiên mà như dao cắt trong lòng.
Tôi ngậm ngùi.
- Đi lính, người ta buồn thấy mồ. Sao cô lại
nói vui?
Kim xuyến bụm mặt, cười khúc khích.
- Đi lính vui chớ sao buồn? Được đi đây đi
đó, biết chỗ này chỗ nọ. Còn hơn là ngồi một chỗ, như em, chán thấy ông bà ông
vải!
- Không sao. Cô muốn vui thì tui vui. Còn
bây giờ, cô có nhắn gửi gì không? Sáng sớm, tui sẽ lên xe đi rồi.
Kim Xuyến mân mê tà áo.
- Em biết anh làm thơ nhiều lắm. Thơ anh
tặng cho cô này cô nọ ở trong trường, ai cũng đồn um lên. Còn em, chẳng bao giờ
thích thơ. Em muốn anh tặng em một bài vọng cổ, kỷ niệm. Anh có dám không?
Kim Xuyến lúng lắng mái tóc dài. Hình như có
những sợi tóc thướt tha, theo gió, muốn quấn chặt đời tôi, bắt đầu từ giây phút
này.
- Tội chi mà không dám. Nhưng cô ráng chờ.
Tôi sẽ đi tìm thầy học nhịp vọng cổ. Sau khi nhuần nhuyễn, sáng tác tặng cô một
bài, khỏe re.
Bỗng Kim Xuyến nhào tới, vỗ vào vai tôi nghe
cái độp, rồi cắm đầu cắm cổ chạy một hơi.
- Anh nhớ nha! Em chờ bài vọng cổ của anh
đó!
III. Tháng tư năm 1975, quân bắc phương tràn
xuống, chiếm trọn miền nam. Những thằng lính còn lại, như tôi, bị đối phương
lùa vào các trại tù. Đầu tiên, tôi bị tạm giam ở trại Mỹ Phước Tây. Đó là một
đồn lính địa phương quân của Việt Nam Cộng Hòa, quân bắc phương trưng dụng biến
thành trại tù một cách công khai. Vì là trại tạm giam nên có cả tù quân sự lẫn
hình sự, tù nam lẫn tù nữ. Đêm Mỹ Phước Tây buồn. Chúng tôi ngồi tụ vào nhau
hút thuốc, ôn lại kỷ niệm và thầm oán trách cuộc đời. Đêm quá nửa khuya, chúng
tôi vẫn chưa ngủ, ly nước trà vẫn chuyền tay nhau, những mẩu tâm sự vụn vặt vẫn
tiếp nối trong bóng đen tràn ngập ưu sầu. Bỗng có tiếng ca vọng cổ cất lên,
vang vang một cách ai oán. Tiếng ca đào của một thiếu nữ đang ở trại tạm giam?
Tiếng ca trong vắt, như lưỡi dao sắc, cắt nhè nhẹ trái tim tù nhân, khiến anh
em chúng tôi ngẩn ngơ, nhìn nhau, rối bời cả gan ruột. Tiếng ca réo rắt xoáy
vào ký ức tôi, làm tôi choáng váng, ôm ngực. Hình ảnh Kim Xuyến hiện lên, quay
cuồng trong trí. Sáu câu vọng cổ nói lên sự tích Bá Nha Tử Kỳ. Phải chăng nàng
muốn nhắc nhớ đến tấm chân tình năm xưa, đến lời hứa hẹn ngày trước? Phải chăng
nàng đang tìm kiếm, trách móc cố nhân đã nhẫn tâm bội ước, bội thề? Chờ cho đến
dứt câu số sáu, tôi đưa hai bàn tay lên miệng làm loa, hướng thẳng về phía
tiếng hát, la lớn.
- Có phải Kim Xuyến vừa hát không? Có phải
không?
Một giọng nói trong trẻo, thân quen, từ phía
bên kia vang lên.
- Ừa. Chính em đây. Còn anh, anh là ai vậy?
Tôi mừng quá, la lớn hơn.
- Anh Sáu đây! Em có nhớ không?
- Trời đất! Làm sao quên được. Anh còn nợ em
một bài vọng cổ, phải không?
- Tối nay anh sẽ thức suốt đêm để sáng tác
sáu câu tặng em. Mai này em sẽ ca bài đó lên cho các anh chị em ở đây nghe nha!
- Anh nói anh nhớ nha! Còn chuyện hát hò là
nghề của em. Sẵn sàng.
- Xuyến ơi! Lý do nào em vào trại giam này
vậy?
- Thì...giống anh. Đi lính.
- Hả? Đi lính? Đi hồi nào?
- Em mới vào quân trường. Đang học, họ vô
"hốt" không còn một móng.
- Bây giờ, em ngủ đi. Ngon giấc nha! Sáng
mai xuống nhà bếp lấy nước, anh sẽ qua bên đó gặp em.
- Dạ. Anh cũng ngủ ngon nhá!
Đêm đó, tôi thức trắng để sáng tác sáu câu
vọng cổ theo lời hứa với Kim Xuyến. Đêm
sau, tất cả trại tù đều không ngủ. Họ đốt thuốc, uống trà...ngồi chờ tiếng hát
trong vắt, sắc như dao...xuất hiện. Mảnh trăng lưỡi liềm vừa lên đến ngọn tre,
tiếng hát Kim Xuyến chợt trỗi lên, cao vút giữa thinh không.
"...Những thân cây cao là những thân
cây chịu nhiều phong ba bão táp, nhưng là những thân cây bám sâu vào đất, bền
bỉ trung kiên ngăn gió dữ mưa...cuồng. Trời đất đổi thay vẫn một dạ một lòng.
Em muốn đứng ngàn năm nơi góc nhớ, tưởng tiếc từng đồng đội đã ra đi. Nhưng
thời gian vẫn là cánh cửa cách ngăn, một ống khóa lạnh lùng và tàn nhẫn. Anh và
em hãy cùng phá tung cánh cửa, tháo khóa cách ngăn mới mong nói chuyện xum
vầy..."
Bài ca ẩn giấu niềm yêu nước của chiến sĩ
Việt Nam Cộng Hòa đựợc tiếng hát mượt mà của Kim Tuyến ngân vang khắp trại tù,
làm hừng hực ý chí của hàng trăm tù nhân chính trị. Rồi cũng chẳng bao lâu, tới
một ngày, chúng tôi bị "xúc" lên các xe nhà binh, mỗi nhóm mỗi ngã,
chia nhau đến những trại tù xa xôi khác. Từ đó, tôi không còn gặp Kim Xuyến
nữa.
IV. Nhờ số điện thoại của Phùng, tôi liên lạc
với Hiện một cách dễ dàng. Hiện hứa sẽ chỉ nơi Kim Xuyến trú ngụ, với điều kiện
tôi phải qua Virginia
chơi một chuyến. Tôi vội vàng thu xếp công việc, chuẩn bị cho cuộc hành trình
đầy thú vị của mình.
- Anh chơi đờn bầu nữa sao? Tuyệt vậy?
Hiện kéo ghế cho tôi ngồi, rồi châm hai tách
trà thơm phức.
- Tôi bắt đầu chơi nó vài năm nay. Độc huyền
hợp với tuổi già. Nó chậm rãi, sâu lắng và xót xa. Nó dày vò những hoài niệm.
Tôi nôn nao, tiến sâu vào vấn đề. 38 năm
rồi, tôi chưa gặp lại Kim Xuyến. Tôi muốn đối diện nàng ngay, bây giờ, để coi
nàng mập hay ốm, tròn hay vuông thế nào?
- Trễ rồi. Anh làm ơn cho số phone hoặc địa
chỉ Kim Xuyến. Tôi phải thăm cô ta ngay.
Hiện vói tay lên bàn, quơ chai Cordon Bleu
xuống, rót đầy hai ly nhỏ.
- Khoan đã. Làm với tôi vài ly cho ấm bụng,
rồi chúng ta cùng đi...
Tôi cầm ly rượu, ực một hơi.
- Anh biết nhiều về Kim Xuyến?
Hiện cầm ly rượu lên, cũng ực một hơi.
- Kim Xuyến trốn trại ở Mỹ Phước Tây và vượt
biên ngay. Chúng tôi cùng chuyến thuyền và may mắn được tàu Mỹ vớt đem thẳng về
nước. Tôi và nàng quen nhau vì duyên văn nghệ: Nàng ca, tôi đờn. Thế là chúng
tôi gắn bó nhau từ đấy. Bài ca đầu tiên nàng hát ở hải ngoại là bài ca anh sáng
tác. Rồi đi đâu, nàng cũng hát bài đó. Nàng hát trong các buổi lễ hội, trong
dịp tết, trong các kỳ ra mắt sách, ở khắp nơi - bất cứ nơi nào có cộng đồng
người Việt.
- Nàng chỉ trình diễn có một bài ca tôi sao?
- Còn nhiều bài ca khác nữa chứ! Nhưng bài
ca anh được mở đầu. Vì bài ca anh gợi lại lòng yêu nước của người Việt tỵ nạn.
Tôi cũng thuộc lòng. Những đứa cháu tôi cũng thuộc lòng. Có nhiều người thuộc
lòng.
Tôi vội vàng chồm dậy, đi tới đi lui, nóng
lòng nhìn đồng hồ.
- Trễ rồi. Tôi van anh, làm ơn cho gặp cô
ta.
Hiện đứng lên một cách nặng nhọc.
- OK. Bây giờ chúng ta đi ra biển.
Tôi trợn mắt, ngạc nhiên.
- Ra biển? Sao lại ra biển?
Một dòng nước mắt tự dưng chảy dài xuống má
Hiện. Hiện ôm mặt, buồn bã.
- Thì...thì Kim Xuyến ở biển. Người ta đã
đem tro cốt nàng rải ngoài khơi. Nàng...mất rồi.
Tôi chới với. Dường như gian phòng của Hiện
đang nghiêng ngửa, quay cuồng. Dường như hai đầu gối tôi không thể điều khiển
được nữa. Bất ngờ, tôi chợt khụy xuống, một
cách yếu ới.
- Hả? Trời ơi! Kim Xuyến mất rồi sao? Mất
hồi nào?
- Cách đây năm năm. Nàng lâm trọng bệnh...
V. Tôi và Hiện mướn du thuyền đâm thẳng ra
biển. Tôi bảo tài công cứ chạy ra khơi, chạy đến khi nào thành phố Virginia Beach nhỏ lại
bằng cái nắm tay. Chiều xuống mịt mùng. Sóng đẩy sóng, trườn lên nhau, vỗ nát
mặt biển. Mũi tàu đập sùng sục trong nước. Khí trời như khói như sương bao phủ
xung quanh chúng tôi một màn huyền ảo lạ thường. Trong màn huyền ảo mênh mông
đó, tôi trườn ra mũi tàu, phình mắt ngó xuống trùng dương thăm thẳm. Bỗng tiếng
ca trong vắt vang lên từ đáy sâu. Tiếng ca như lưỡi dao sắc cắt nát trái tim
người. Tôi vội vàng đưa hai bàn tay lên miệng làm loa, hướng thẳng về phía
tiếng ca, la lớn: KIM.....XUYẾN, KIM...XUYẾN...Cứ thế, tôi tiếp tục la cho đến khi khàn giọng, tắt tiếng. Phía
sau, Hiện đứng sửng như tượng đá, nước mắt rớt như mưa, nhạt nhòa khuôn mặt...
*PHẠM HỒNG ÂN
(Escondido , 27/03/2013)
Subscribe to:
Posts (Atom)