Chiếc Boeing 707, sau
khi vượt qua chặng hành trình dài 12.000 mile, đã ngạo nghễ đáp xuống phi trường Newyork an
toàn. Nước Mỹ rực rỡ hiện ra trước mắt chúng tôi. Tất cả đều mới lạ, đẹp đẽ, và văn minh một cách tuyệt vời. Trường U.S. Naval
Officer Candidate nằm ở tiểu bang Rhode Island, trong thành phố Newport, thuộc khu vực vịnh Narragansett.
Ðó là điểm cuối cùng chúng tôi phải đến, để chịu thời gian thụ huấn, cách đây thêm 2 giờ xe nữa. Chiếc bus quân sự màu xám tro, dềnh dàng như tòa nhà hình hộp, đang nằm sẵn chờ chúng tôi bên vệ đường. Cô tiếp viên Mỹ xinh xắn, nở nụ cười thật tươi thắm, đưa tay chào đón chúng tôi một cách nồng nàn.
66 Sinh Viên
Sĩ Quan Hải Quân từ Việt Nam sang Hoa Kỳ học hải nghiệp. 66 khuôn mặt lơ tơ mơ, chưa biết mùi đời. Vừa rời ghế nhà trường, tình nguyện vào lính, bởi chiến tranh càng lúc
càng dâng cao đến độ nóng sốt. Có lẽ, lần đầu, chúng tôi đi xa. Trải qua cuộc du hành dài lê
thê, nhưng rất ngoạn mục. Chúng tôi tiếp cận ánh sáng văn minh, từ : Bangkok (Thái
Lan), đến Narita (Nhật), rồi Alaska, Newyork (Mỹ)...Ở đâu, người ta cũng đều lịch sự và ấm no như trong cõi thiên đàng. Nhìn lại, đất nước tôi, biết bao năm vùi mình trong đói nghèo và chiến tranh - mà xót
xa, tội nghiệp biết chừng nào!
Chiếc bus lướt êm ái qua cầu Jamestown cong
vút. Cây cầu tuyệt diệu bắt qua một eo biển rộng. Từ xa, nhìn lại, nó cao và nhô lên như mảnh trăng lưỡi liềm. Nó khiến tôi nhớ đến cây cầu ô thước trong truyện cổ tích, do bầy quạ khổng lồ chỉ bắt mỗi năm vào mùa mưa ngâu, cho đôi Ngưu Lang và Chức Nữ gặp gỡ. Qua cầu, trường bắt đầu hiện ra trong ánh nắng nhàn nhạt của buổi chiều. Buổi chiều chớm thu. Thế mà trời lạnh như cắt. Cái lạnh muốn cắt sâu vào da thịt. Cắt sâu vào ruột gan nỗi khắc khoải nhớ nhà. Chúng tôi sắp hàng dài, đứng nép vào nhau
truyền hơi ấm, chờ đợi các Barman dẫn vào Hall. Mới chớm thu, có dăm đứa trong chúng tôi
đã ọc máu mũi. Không biết mùa đông sắp tới. Khi tuyết bắt đầu rơi lả lả. Số phận chúng tôi sẽ ra sao?
Ở Newport, có rất nhiều trường Hải Quân nổi tiếng, như : U.S.
Naval War College (thành lập năm 1885), Naval Education and
Training Center, Naval Undersea Warfare Center (1934)...Trường chúng tôi thuộc Naval Education
and Training Center. Phạm vi trường rất rộng, trải dài theo vịnh Narragansett. Có những khu vực huấn luyện trang bị tối tân và những Hall xây cất bề thế. Trong đó có Ney Hall, là
một nhà ăn rất lớn, có thể chứa được hàng trăm thực khách.
Tôi đến Ney Hall mỗi ngày ba lần, và lần nào cũng là người khách cuối cùng rời quán. Tôi thích
không khí nơi đây. Buổi chiều, trời se se lạnh, ngồi nhấm nháp ly cà phê nóng một mình, rồi tưởng đất nhớ trời...cũng thấy ấm lòng đôi chút. Hôm nọ, như thường lệ, tôi ngồi dùng dinner với một người bạn. Ðó là chiều thứ sáu, cuối tuần, thân nhân của các Sinh Viên Sĩ Quan Mỹ đến thăm rất đông. Họ dẫn nhau vào Ney
Hall ăn chiều và chuyện trò rất ồn ào. Những người đến sau, khó tìm ra chiếc ghế trống để ngồi dùng bữa. Người bạn tôi vừa đứng lên, đã có cô gái Mỹ chen vào. Cô gái
rất bình thường, nhưng làm rúng động tôi ngay từ lúc đầu. Mái tóc hoàng kim tha thướt chấm vai. Và đôi mắt long
lanh...xanh thẳm nghìn trùng! Tôi lặng lẽ chiêm ngưỡng. Như đã từng lặng lẽ đi theo sau các cô
nữ sinh ở quê nhà. Lặng lẽ, rồi về nhà làm thơ, cà lơ phất phơ với nỗi buồn của mình. Hai mươi tuổi rồi, tôi vẫn chưa có được một người tình. Chưa được hân hạnh trao hôn. Chưa được biết mùi vị cái hôn, nó ra
thế nào ?
Mãi ngây ngất với tưởng tượng, không hay cô
gái Mỹ vừa ăn xong, cắm cúi bước đi. Tôi ngẩn ngơ trông theo, thầm tiếc rẻ "cuộc gặp gỡ" sao quá ngắn ngủi ! Bỗng, tôi bắt gặp cái túi xách của nàng đang treo tòn ten ở thành ghế. Ồ! Nàng vội vã quá, nên
quên mất nó chăng? Như một phản xạ tự nhiên, tôi cầm cái túi xách dễ thương lên tay, cắm đầu chạy theo nàng.
- Ơi! Cô ấy ơi!...Cô bỏ quên cái
này...
Tôi vừa chạy, vừa thở hổn hển, vừa gọi nàng, vừa cầm cái túi xách đưa lên khỏi đầu. Cô gái Mỹ nhận ra. Nàng từ tốn dừng lại, nhoẻn miệng cười, rồi rối rít :
-Cám ơn ông!...Cám ơn ông!...
Có lẽ, lòng "hào
hiệp" lì lợm của tôi đã khiến nàng tội nghiệp. Nên nàng nắm tay tôi, lôi một mạch ra bãi biển :
- Tôi rất thích người Việt. Nhất là các Sĩ Quan Hải Quân như ông. Tôi cũng đang học Hải Nghiệp. Trường chúng tôi ở phía bên kia, gần Navy Exchange.
Tên tôi là Kathy. Hân hạnh được biết ông...
Thế là, tôi với Kathy quen
nhau, ngay từ chiều thứ sáu ấy.
Vốn liếng Anh ngữ của tôi quá ít ỏi, không thể nghe và hiểu được nàng nhiều. Nhưng, tình yêu, dường như có giác quan rất đặc biệt. Nó hiểu và cảm thông nhau ở cách thế khác. Vả lại, có ông thi
sĩ nào đó đã nói :" Yêu nhau là từ hai hướng khác nhau,
cùng nhìn về một hướng ". Thế đấy! tôi và Kathy
yêu nhau từ lúc nào? Chỉ có trời đất xứ Mỹ này biết!
Mỗi weekend, không
cần hẹn nhau, cứ nghe tiếng còi xe của Kathy reo vang, là tôi ba chân bốn cẳng chạy ra, leo lên xe,
ngồi cạnh nàng. Sau khi vào China Town dùng
cơm tàu, nàng chở tôi dạo khắp Newport. Newport nằm về hướng đông-nam của Rhode
Island, là một hải cảng sầm uất, ở gần mũi Narragansett. Newport có nhiều kiến trúc trứ danh như : Friends
Meeting House (1699), Trinity Church (1726), Redwood Library and
Athenaeum (1748-1950), Touro Synagogue ( đền Do Thái giáo-1763)...Newport còn
nhiều tòa nhà hoành tráng khác : Breakers (1895), Château-Sur-Mer
(1852), Elms (1901), Marble House (1892) và Rosecliff (1902). Newport còn
nổi tiếng về Jazz, với những ngày lễ hội âm nhạc tưng bừng.
Loanh quanh ở Newport mãi,
cũng chán. Kathy chạy dần lên Newyork,
ghé thăm những kỳ quan nức tiếng của thành phố đồ sộ này. United Nations Headquarters tọa lạc nơi vùng Manhattan,
nằm dọc theo dòng sông East (East River), khoảng giữa đường 42 và đường 48 trong thành
phố Newyork. Ðó là một tòa nhà đặc biệt, có phòng họp thiết kế tối tân dành cho đại biểu các nước trên thế giới về họp. Tòa nhà được hoàn thành vào
năm 1952. Còn Empire StateBuilding là tòa nhà chọc trời ở đại lộ 5, khoảng giữa đường 33 và 34. Khi được khánh thành năm 1931, nó là tòa
nhà cao nhất thế giới. Chiều cao là 1.250 feet, gồm có 102 tầng.
Thú vị nhất, lúc chúng tôi
hòa vào đám đông trên cảng Newyork, đứng đợi ferry để ra đảo Liberty thăm Statue Of Liberty. Tượng Nữ Thần, biểu tượng cho sự tự do, đã là một trong những cảnh tượng đầu tiên, hân hoan
chào đón các di dân đến Mỹ. Tượng cao 93m (306
ft), Kathy phải nằm ngửa người xuống đất, mới chụp được ảnh toàn tượng. Chúng tôi theo đoàn người dẫn vào tượng, rồi đi dần lên cao theo
các bậc thang. Tôi và Kathy hôn nhau đắm đuối, nơi ngọn đuốc của Nữ Thần Tự Do.
Ngày mãn khóa
đã tới. Tôi phải rời trường, trở về nước. Kathy khóc cạn nước mắt. Tội nghiệp, nàng ôm
tôi không rời, suốt mấy giờ qua. Chiếc bus chực sẵn bên ngoài, cứ bóp còi inh ỏi. Bạn bè tôi la ó
vang rân, hối thúc liên hồi. Kathy mềm nhũn trong vòng tay
tôi. Nàng thì thào qua hơi thở :" Tốt nghiệp, em sẽ tình nguyện sang Việt Nam, chiến đấu với anh. "
Về nước, tôi lại lao mình vào những cuộc tình bưởi bồng khác, ngao du
qua các bến lạ xa xôi, dần dà quên khuấy đi Kathy. Dăm cánh thư thăm hỏi...cũng thưa dần, rồi bặt tăm.Năm năm trời ngang dọc khắp chiến trường, tôi vẫn chưa hề gặp được Kathy, như lời hứa hẹn nàng trao tôi lần cuối.
30 năm...nặng nề trôi qua..., tôi
trở lại Mỹ theo diện HO, sau khi trải qua những năm tháng lao lung
trong ngục tù Cộng Sản. Thời gian đầu đến Mỹ, vài người bạn biết chuyện, khuyên tôi nên tìm lại Kathy, biết đâu nàng có thể giúp cơ hội trên bước đường sinh kế. 30 năm dài nghiệt ngã trôi qua.
Biết bao vật đổi sao dời. Biết bao mưa sa bão táp. Tôi tưởng tượng đến một bà Mỹ già khú đang ho sù sụ, run rẩy chải lại mái tóc xác xơ rụng trắng mái đầu. Tôi tưởng tượng đến mụ Mỹ mập mạp, da trổ đồi mồi, lờ đờ đôi mắt cá ươn, đầy dấu chân chim - chậm chạp lê từng bước nặng nề trên thành phố Newport, tìm kiếm lại kỷ niệm thân yêu ngày
nào. Thôi, gặp nhau làm gì? Hãy để tôi giữ mãi hình ảnh đẹp của Kathy trong
lòng. Giữ mãi mái tóc hoàng kim tha thướt chấm vai. Và đôi mắt long
lanh...xanh thẳm nghìn trùng.
*PHẠM HỒNG ÂN
(San
Diego, 3/9/2000)
No comments:
Post a Comment